NGỘ NHẬN VÀ MÙ QUÁNG
Nước mía@ Tại Đối thoại
Shangri-La ở Singapore, Tổng tham mưu của Trung Quốc, Vương Quán Trung đã trả lời
câu hỏi của báo chí về cái gọi là đường Đường Chín Đoạn, đánh dấu thứ gọi là “lãnh thổ tuyên bố” của Trung Quốc trong
Biển Đông.
Theo các phương tiện truyền thông tại một phiên họp
hôm thứ Hai, Wang Guanzhong nói chủ quyền của Trung Quốc và quyền tài phán trên
vùng biển Nam Trung Quốc đã được hình thành từ thời nhà Hán, khoảng hai ngàn
năm trước. Năm 1948, hai năm sau khi Trung Quốc đã lấy lại Nam Sa và quần
đảo Tây Sa từ Nhật chiếm đóng, Trung Quốc trình bày các chứng cứ của mình như vậy. Wang
cho biết nước này không đòi hỏi phần này
cho đến khi những năm 1970, khi đã phát hiện được được nguồn dầu phong phú dưới
vùng nước của nó.
Wang cũng cho biết Trung Quốc tôn trọng trách nhiệm của
mình như một ký Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Tuy nhiên, ông lưu ý
rằng các quy ước, có hiệu lực vào năm 1994, có thể không được áp dụng. Ông
nhấn mạnh rằng Liên Hiệp Quốc không thể xác định lại chủ quyền và quyền tài
phán hàng hải đã được thiết lập thông qua lịch sử.
Ông này cũng cho rằng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
biển chỉ là một phần của hệ thống pháp luật lớn chi phối chủ quyền và quyền tài
phán hàng hải. Và bất kỳ nỗ lực để điều chỉnh yêu sách lãnh thổ sẽ không
chỉ liên quan đến các quy ước, mà còn một số lượng lớn của luật pháp quốc tế
khác.
Bằng chứng được Trung Quốc đưa ra là những dẫn chứng
mà họ cho là “có giá trị lịch sử”, được lưu lại dưới dạng “lời nói”?. Luận thuyết của Trung Quốc dựa trên quyền phát hiện
đầu tiên và chiếm cứ hữu hiệu đối với lãnh thổ vô chủ (terra nullius)
Trung
Quốc khẳng định họ đã phát hiện ra các quần đảo sớm nhất, từ thời Hán Vũ Đế (thế
kỷ II trước CN). Tuy nhiên, để chứng minh cho luận cứ này, Trung Quốc đưa ra
các tài liệu không phải là chính sử được viết bởi các cơ quan nhà nước. Theo
Nguyễn Hồng Thao, “phần lớn chúng là những ghi chép về các chuyến đi, các
chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện những nhận biết địa lý của người xưa
liên quan không chỉ tới lãnh thổ Trung Quốc mà còn tới lãnh thổ của các nước
khác.” Hơn nữa, phần lớn các tài liệu nói đến các quần đảo với những tên gọi rất
khác nhau, làm cho mọi xác minh không được chắc chắn.
Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Mặt
khác, tác giả Phạm Hoàng Quân cho biết, theo Cổ kim đồ thư tập thành, bộ bách
khoa toàn thư do Thanh triều tổ chức biên soạn, hoàn thành năm 1706, trong phần
Chức Phương điển (sách điển chế về địa đồ các đơn vị hành chính), các địa đồ
như Chức Phương tổng bộ đồ (địa đồ số 1), Quảng Đông cương vực đồ (địa đồ số
157), Quỳnh Châu phủ cương vực đồ (địa đồ số 167) đều không ghi nhận các quần đảo
xa hơn đảo Hải Nam ngày nay. Theo Quảng Đông thông chí vẽ đời Gia Tĩnh
(1522-1566) thì phần hải đảo cũng chỉ đến Quỳnh Châu (tức Hải Nam).
Trung
Quốc cũng sử dụng những bằng chứng về khảo cổ và việc tìm thấy vết tích tiền và
đồ cổ từ thời Vương Mạng để khẳng định sự có mặt của ngư dân Trung Quốc trên
các quần đảo. Tuy nhiên, các hoạt động khai thác của ngư dân Trung Quốc là các
hoạt động tư nhân, không mang lại hiệu lực pháp lý của quyền chiếm cứ hiệu quả
mà luật quốc tế đòi hỏi.
Để
chứng minh việc thực thi chủ quyền trên các quần đảo từ lâu đời, Trung Quốc đưa
ra các sự kiện sau:
-
Các cuộc tuần tra quân sự đến vùng biển quần đảo Hoàng Sa từ thời nhà Tống
(960-1127). Khẳng định này dựa trên cơ sở Vũ Kinh tổng yếu (chương trình chung
về quân sự có lời đề tựa của vua Tống Nhân Tông). Theo Monique
Chemillier-Gendreau, tài liệu này chỉ cho thấy có các đó là các hành trình thăm
dò địa lý tới tận Ấn Đô Dương, và xác nhận Trung Quốc có biết đến quần đảo
Hoàng Sa nhưng không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
-
Vào thế kỷ XIII, Hoàng đế nhà Nguyên ra lệnh cho nhà thiên văn học Quách Từ
Kính thực hiện các quan trắc thiên văn, trong đó có một số quan trắc từ Hoàng
Sa. Tuy nhiên, các quan trắc này được thực hiện một phần trong lãnh thổ Trung
Quốc, một phần ngoài lãnh thổ, mang tính chất nghiên cứu khoa học, không đủ để
tạo nên danh nghĩa chủ quyền.
-
Vào khoảng các năm 1710-1712, phó tướng thủy quân Quảng Đông là Ngô Thăng đã thực
hiện một cuộc tuần biển đến Hoàng Sa. Tuy nhiên, theo Monique
Chemillier-Gendreau, xem xét trên bản đồ thì lộ trình đi tuần chỉ là một con đường
vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là quần đảo Hoàng Sa.
-
Năm 1883, khi tàu của Đức thực hiện nghiên cứu khoa học tại quần đảo Trường Sa,
chính quyền Quảng Đông đã phản đối. Nhưng khi danh nghĩa của một nhà nước chưa
được xác lập vững chắc và lâu dài, việc phản đối này chỉ mang tính chất ngoại
giao và không có giá trị pháp lý.
Các
bằng chứng lịch sử của Trung Quốc về quyền phát hiện và chiếm cứ hiệu quả hai
quần đảo rõ ràng là rất ít ỏi, không vững chắc và không đáp ứng được đầy đủ các
điều kiện của luật quốc tế. “Chúng không chứng minh được một sự chiếm cứ thông
thường, một sự quản lý hành chính hữu hiệu sự kiểm soát chủ quyền”.
Cân
nhắc các luận cứ lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc về quyền phát hiện đầu tiên
và chiếm cứ hiệu quả, giáo sư người Pháp Yves Lacoste cho rằng: “dù sao đi nữa,
luận cứ của Việt Nam cũng mạnh mẽ hơn luận cứ của Trung Quốc.”
Đầu
thế kỷ XX, Trung Quốc mới thực sự quan tâm và có những nỗ lực đầu tiên để chiếm
cứ quần đảo Hoàng Sa. Vào năm 1909, đô đốc Trung Quốc là Lý Chuẩn thực hiện một
cuộc đổ bộ nhỏ (trong 24 giờ) lên quần đảo này. Họ kéo cờ và bắn súng để biểu
thị chủ quyền của Trung Quốc. (Sự kiện này cho thấy sự mâu thuẫn trong lập luận
của Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc chiếm cứ thực sự từ
lâu đời, thì tại sao phái đoàn của Lý Chuẩn lại không biết điều này và hành xử
như thể lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo?). Nước Pháp đại diện cho An Nam
không có phản ứng gì trước cuộc đổ bộ này vì họ cho rằng đó chỉ là một nghi thức
hải quân nhân dịp chuyến thám sát.
Năm
1921, chính quyền dân sự Quảng Đông sát nhập hành chính các đảo Hoàng Sa vào
Nhai huyện. Sự kiện này không gây ra phản ứng gì của các nước vì khi đó chính
quyền Quảng Đông không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc lẫn các cường quốc
công nhận.
Năm
1937, trước sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo “nằm ngoài khơi Đông
Dương”, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt chúng dưới quyền
tài phán của Cao Hùng (Đài Loan).
Trong
suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo bị Nhật chiếm đóng.
Như
vậy, cho đến khi Thế chiến II kết thúc vào năm 1945, ngoài nỗ lực ban đầu trong
việc biểu thị chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không thể hiện được
một sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành chính hiệu quả trên các đảo.
Đối với quần đảo Trường Sa, Trung Quốc hoàn toàn không hề có một ảnh hưởng nào.
Sau
khi đầu hàng vào năm 1945, Nhật Bản rút khỏi Đông Dương và các quần đảo. Sau
khi Pháp khôi phục lại sự có mặt của mình tại Hoàng Sa vào tháng 6 năm 1946,
quân đội Trung Hoa Dân Quốc đổ bộ lên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) vào tháng
1 năm 1947. Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu trái phép này của Trung Quốc
và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng.
Các trạm khí tượng này hoạt động trong suốt 26 năm cho đến khi Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa chiếm đóng quân sự vào năm 1974.
Cuối
năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc cử quân đội đến chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo
Trường Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền.
Tháng
10 năm 1949, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5 năm 1950, Quân đội Quốc
dân Đảng phải rời khỏi các đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo
Trường Sa). Các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa.
Tháng
4 năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa đưa quân đến thay thế các đơn vị của Pháp tại Hoàng Sa. Nhưng khi đó
chính quyền Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã kín đáo cho quân đổ bộ chiếm phần
phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh).
Ngày
4 tháng 9 năm 1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng cho cả
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày
19 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Đối
với quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiński, cho đến thời điểm này (tháng 1 năm
1974) „Trung Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường
Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện kiểm soát nó.”
Tháng
2 năm 1988, Trung Quốc gửi quân đội đến một số đảo trên quần đảo Trường Sa.
Tháng
3 năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm 6 đảo của Việt Nam trên quần đảo
Trường Sa. Trung Quốc là quốc gia duy nhất yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ
quần đảo Trường Sa nhưng trên thực tế không kiểm soát bất cứ đảo nào cho mãi đến
tận năm 1988.
Tháng
4 năm 1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam và hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng
5 năm 1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường Sa.
Tháng
2 năm 1995, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ của Phillippines trên
quần đảo Trường Sa.
Có
thể thấy phương pháp chủ yếu của Trung Quốc là dùng vũ lực để chiếm hữu các đảo.
Tuy nhiên, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh phục một
lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên
Hợp Quốc ngày 24 tháng 10 năm 1970 cũng đã ghi rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia
không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng
vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một
quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử
dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa
sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp.” Do đó, các hành động
dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại danh
nghĩa pháp lý cho nước này đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và dĩ nhiên, nếu như các bạn tin vào những thứ gọi là
“chứng cứ lịch sử” mà Trung Quốc đưa ra, thì VnFlag Blog chúng tôi mới mở một cửa
hàng bán đồ lót ở trên sao hỏa đấy, các bạn có thời gian thì ghé qua nhé!
0 comments:
Post a Comment