PHẦN 2:…TỚI THAM VỌNG ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Nước mía@ Trong phần trước, Vn-Flag Blog đã gửi tới bạn
đọc những đánh giá hết sức khách quan nhằm giải mã giấc mơ của Trung Quốc. Nhìn
nhận một cách thấu đáo, chúng ta có thể thấy rằng, nỗi sợ hãi chính là nguyên
nhân cơ bản khiến Trung Quốc liên tục bất chấp tất cả luật pháp và dư luận quốc
tế, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Tham vọng độc chiếm biển Đông
không còn chỉ là ý đồ của chính quyền Bắc Kinh nữa, nó đã và đang được thực hiện
bằng những bước đi hết sức tinh vi và sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Trong phần 2 này,
Vn-Flag Blog xin gửi tới độc giả một bài viết về tiềm năng to lớn của biển
Đông. Qua đó, chúng tôi hi vọng rằng, độc giả sẽ có thể tìm được câu trả lời
cho những hành động “ngang ngược” của Chính phủ Trung Quốc thời gian gần đây.
Trung Quốc đang đi ngược lại lợi ích của quốc tê
Biển Đông còn gọi là biển Nam Trung Hoa theo tên tiếng
Anh (The South China Sea) và tiếng Pháp Mer de Chine Méridionale, là một biển
rìa Tây Thái Bình Dương.
Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên của các
biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc mang tên của một
nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đông nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên
có tên gọi là biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, địa danh biển không có ý
nghĩa về mặt chủ quyền như một số người ngộ nhận.
Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc
gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là
Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Biển Đông được nhân dân Việt Nam
gọi theo thói quen như một danh từ riêng.
Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5
triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc
và từ kinh độ 100o đến 121o Đông. Ngoài Việt
Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin,
Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp
tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này. Biển Đông không
chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của
châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Tiềm năng của Biển Đông
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên
nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung
quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí),
du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải
sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và
Philippin, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng
4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm),
cả khu vực đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu
khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các
bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công,
Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là
những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam,
Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của
OPEC.
Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều
bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam
Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương
đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa
Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn
và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối.
Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu
đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu
thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng
213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105
tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu
tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu
khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ
biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí
của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và
Malaysia.
Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển
Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại
tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi
là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu
khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các
yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển
quanh hai quần đảo.
Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch
nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á.
Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên
quan đến Biển Đông gồm: tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê,
Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân; tuyến Đông Á đi qua kênh đào
Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Úc và Niu Di Lân, Nam Thái
Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến đường
vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200
tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên
5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực
Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại
nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải
ngày càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống
còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả
Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên
thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45%
trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.
Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng
biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đông
có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến
lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai -
Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới
(sau eo biển Hormuz).
Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc
biệt sau vụ tấn công khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm
2002. Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu
vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với
Mỹ và Nhật Bản. Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là
Trung Đông. Vì vậy, việc Biển Đông bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào
khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của
các nước khu vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và
khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển
Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất
nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển
Đông.
Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa ở Biển Đông
Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng
thủ chiến lược quan trọng đối với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển
nhất trên thế giới.
Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của
Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra
của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của
các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo biển thuộc chủ quyền của
lndonesia là Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống
eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển
qua các eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu
cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển
Đông, nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu
cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải
đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới
26%, Australia 40% và Trung Quốc 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la). Nếu khủng hoảng
nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua
Nam Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn đủ
sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí
chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và
dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các
trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè... Các nhà chiến lược phương Tây
cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển
Đông.
0 comments:
Post a Comment